Không phải ai mắc chứng lo âu cũng trải qua những cơn hồi hộp kịch phát hay cảm giác hoảng sợ dữ dội. Nhiều người sống trong trạng thái lo lắng âm ỉ, khó tập trung, ăn uống kém và mất ngủ nhẹ – kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Họ thường mệt mỏi sau một ngày làm việc, trí nhớ giảm sút, tinh thần uể oải và không thể phục hồi ngay cả khi nghỉ ngơi. Trong Y học cổ truyền, đây là biểu hiện điển hình của thể bệnh Tâm tỳ hư (心脾虛) – một thể bệnh vừa phổ biến, vừa có tính chất “mỏng – sâu – kéo dài”. Lo âu trong trường hợp này không bộc phát dữ dội, mà lặng lẽ ăn mòn thể lực, tinh thần và chất lượng sống của người bệnh.
Khi nói đến lo âu, phần lớn mọi người nghĩ đến một cảm giác mơ hồ: hồi hộp, bồn chồn, sợ hãi không lý do. Nhưng Đông y thì nhìn khác – không phải ai lo âu cũng giống nhau. Có người lo mà nóng nảy, có người lo mà trầm mặc, có người thì lo đến mức mất ngủ triền miên… Đó là vì “lo âu” chỉ là biểu hiện bên ngoài – còn gốc rễ thì nằm ở từng thể trạng khác nhau.
Bạch Phục Linh (白茯苓) là phần nấm ký sinh trên rễ cây thông (Poria cocos), sau khi loại bỏ vỏ đen và lõi gỗ sẽ cho phần “bạch” – trắng, sạch và có tính trung bình, vị ngọt nhạt. Trong Đông Y, Bạch Phục Linh là vị thuốc nổi bật trong nhóm lợi thấp – kiện tỳ – an thần, thường dùng cho người phù nề, tiểu ít, tiêu hóa kém, tâm phiền, mất ngủ nhẹ do tỳ hư.
Bạch Cập (白及) là rễ củ của cây thuộc họ Lan (Orchidaceae), nổi bật với công năng thu liễm chỉ huyết, tiêu viêm, sinh cơ liền sẹo. Trong Đông Y, Bạch Cập thường dùng để trị ho ra máu, chảy máu cam, loét miệng, tổn thương niêm mạc, vết thương lâu liền. Ngoài ra, còn có tác dụng giảm viêm sưng và ức chế tăng sinh u lành.
Hồng Sâm (红参) là rễ củ của cây Nhân Sâm (Panax ginseng) đã được hấp chín rồi phơi khô, tạo thành loại sâm có màu đỏ sẫm đặc trưng. So với Nhân Sâm tươi, Hồng Sâm có tính ôn, tác dụng bổ dương khí mạnh hơn, thường được dùng trong các trường hợp nguyên khí suy kiệt, mệt mỏi kéo dài, ho lao, tiểu đường do khí hư, người lớn tuổi hư nhược sau bệnh.
Hà Thủ Ô (何首乌) là rễ củ của cây dây leo thuộc họ Rau răm, được biết đến từ lâu đời như một vị thuốc quý giúp bổ Can Thận, dưỡng huyết sinh tinh, làm đen tóc, cường gân cốt. Tùy theo mục đích sử dụng, Hà Thủ Ô có thể dùng sống hoặc chế biến – mỗi dạng có tác dụng riêng.
Phụ Tử (附子) là rễ con của cây Ô đầu (Aconitum carmichaeli), sau khi được chế biến loại bỏ độc tính sẽ trở thành Chế Phụ Tử – một vị thuốc cực dương, ôn nhiệt mạnh, dùng để hồi dương cứu nghịch, ôn trung trừ hàn, trợ dương cường thận, giảm đau. Đây là “vua của các vị ôn dương”, thường có mặt trong các bài thuốc trị suy nhược nặng, chân tay lạnh, mạch trầm vi, tiêu chảy do tỳ thận dương hư.
Ba Kích (巴戟天) là rễ của cây Ba kích tím, nổi tiếng từ lâu đời trong Đông y với công dụng bổ Thận dương, tráng gân cốt, hỗ trợ sinh lý nam nữ, trị liệt dương – hoạt tinh – tử cung lạnh. Đây là vị thuốc đặc trưng của các bài thuốc bổ dương, ôn Thận, rất phù hợp cho người lưng gối lạnh đau, sinh lý suy yếu, tiểu nhiều về đêm, người lớn tuổi hư nhược.
Dâm Dương Hoắc (淫羊藿) là một trong những vị thuốc bổ Thận Dương trứ danh của Đông Y, thường được sử dụng trong các chứng sinh lý yếu, lưng gối lạnh đau, tiểu đêm nhiều, vô sinh hiếm muộn, suy nhược sau bệnh. Đây là vị thuốc ấm – cay – ngọt, quy vào Can, Thận, dùng rất phổ biến trong các bài thuốc tráng dương – kiện cốt – tăng cường sinh lực.
Đại Táo (大枣) là quả chín phơi khô của cây táo ta, có vị ngọt, tính ôn, từ lâu đã được xem là vị thuốc bổ khí dưỡng huyết phổ biến, thường xuất hiện trong hầu hết các bài thuốc cổ phương. Không chỉ có tác dụng riêng, Đại Táo còn được dùng để hòa hoãn – điều hòa tác dụng các vị thuốc khác, giúp bảo vệ tỳ vị, làm dịu tính công phá của thuốc hàn – nhiệt – tả hạ.











